
Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em chung sống. Mỗi dân tộc có những nét đẹpvăn hoá riêng của mình, trong đó có phong tục đón tết.
Xin giới thiệu một số lễ tết của các dân tộc.
Tết Yangpa của người Chơro:
Người Chơ Ro sinh sống chủ yếu tại Ðồng Nai, Lâm Ðồng và Bà Rịa - Vũng Tàu, nhưng đông nhất là ở Đồng Nai. Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon do mình làm... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.

Tết Nhôlirbông của người Cơho:
Người CơHo sinh sống chủ yếu ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này thường kéo dài cả tháng. Lễ cúng mừng lúa thường được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của già làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui.
Lễ tết của người Chăm:
Đồng bào Chăm hiện sinh sống chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Ở Đồng Nai cũng có một cộng đồng sinh sống tại Xuân Hưng, Xuân Lộc. Hai lễ tết lớn của người Chăm là Păng-Katê và Păng-Chabư.
Păng-Katê cử hành vào 1-7 theo lịch Chăm (khoảng tháng 9 dương lịch) và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16-9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.
Vào những ngày lễ, đồng bào chăm đổ về các nơi hành lễ chính như dền tháp Pônaga, tháp Pôrômê ở Ninh Thuận; tháp PôKlông Garai ở Phan Rang. Tết Păng-Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai, còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các nữ thần, các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.
Người Chăm có 2 bộ phận chính theo 2 tôn giáo khác nhau là Bà la môn và bộ phận theo đạo Hồi.
Những người theo đạo Bà la môn kiêng thịt bò, những người theo đạo Hồi thì kiêng thịt heo.
Ngày tết người theo đạo Hồi thường đến các giáo đường để nghe chức sắc đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah. Sau đó họ ra sông suối tắm để tẩy uế những cái xấu, cái xui của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành.
Người Chăm không có tục kiêng cữ.
Tết của người Thái:

Người Thái ở Sơn La và Lai Châu đón tết hầu như suốt cả mùa, gọi là mùa Tết. Ðầu tiên là tết Soong Sịp (tết cơm mới) sau khi lúa ở ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng lễ. Mọi nhà đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau tết Soong Síp là tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen-Bươn-Tiền (tết Nguyên đán). Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi tiếng,tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới kết thúc. Đến nhà người Thái vào dịp tết không nên ngồi vào chiếc ghế nệm vì đó là của chủ nhà và cũng nhớ đừng bao giờ ngồi quay lưng vào phía bếp.
Tết cơm mới của người Êđê:
Tết Cơm mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín. Tuỳ theo gia cảnh mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay ít. Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Alê Ngăn ở trên trời xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa”.
Tết của người Mông (H’Mông):
Người H'Mông ở vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc ăn tết rất thịnh soạn, chẳng kém gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng đủ màu sắc, nhưng màu đỏ là được ưa chuộng nhất. Tết Nguyên đán của người H'Mông gọi là NaoX-Cha. Ðể chuẩn bị sẵn con lơn béo. Ngoài thịt ra, còn có bánh bằng bột nếp, bánh chưng ít khi dùng. Tết của người H'Mông thường tổ chức giữa mùa đông giá rét, trước hay sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Ðêm giao thừa các gia đình thường cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước ngoài sông suối đêm về nhà cúng tổ tiên. Nếu bạn đến nhà của người H’Mông vào ngày tết, chủ nhà sẽ chào ta bằng câu “Nắng trời lên”, thay cho lời chúc sức khoẻ. Bạn sẽ được mời uống rượu, được mời hút thuốc. Nhưng xin nhớ cho đừng lấy tay đập vào ống điếu mà…xui. Người H,Mông ở vùng cao nên sợ mưa lũ vì thế ngồi vào mâm bạn đừng chan canh. Tết của người H’Mông còn nổi tiếng với tiếng khèn vang khắp các sườn núi. 

Tết của người Hrê:
Tết của người Hrê ở Quảng Ngãi kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà già làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng... Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.
Tết của người Dao:
Người Dao cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã……

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét